Loạt bài viết này dựa theo cuốn ôn thi mang tựa đề “図面のポイントがわかる機械製図” Tập 2

mục tiêu là tháng 10 năm nay(2016) đỗ Cấp 2 về bản vẽ và thao tác trên CAD.(2級機械・プラント製図(機械製図CAD作業)実技試験)

Năm nay là năm đầu tiên thi nên cứ vừa làm vừa học, học để làm là chính, lấy cái bằng là phụ, lấy cái trợ cấp là phụ của phụ :))

Cuốn sách này khá hay bới điểm thực dụng của nó. Có khá nhiều bản vẽ mẫu và bài phân tích lỗi sai, chỉ ra cách đúng nên học theo cuốn này khá tiện.

Cuốn này(tập 2) có 2 Phần do vậy bài viết này cũng sẽ chia thành 2 phần:

Phần 1: Căn bản  gồm 3 chương

Chương 1: Những điều cần biết trước khi vẽ bản vẽ

Chương2: Những điểm cần lưu ý khi vẽ

Chương 3: Những điểm quan trọng trong bản vẽ

Phần 2: phần Ứng dụng gồm 3 chương:

Chương 4:Về bản vẽ phác thảo

Chương 5: Các bản vẽ ví dụ

Chương 6: Các bản vẽ mẫu (đạt chuẩn)

Đương nhiên không phải là dịch tuốt tuồn tuột cuốn sách này mà là chỗ nào cần thì đưa vào bài thôi.

Chương 1: Những điều nên biết trước khi vẽ

Đoạn đầu này thì nặng về lý thuyết lan man về những điều mà cứ tưởng ta biết lâu rồi nhưng mà đọc lại thì vẫn cảm thấy là…. biết lâu rồi 🙂

1・1 Khung bản vẽ

Căn bản nhất của căn bản luôn. Nói 1 cách đơn giản: Bản vẽ nhằm mục đích truyền đạt tối đa thông tin chính xác đến người thợ gia công. Và những thông tin đó được bố trí tại các vị trí đã được quy định. Ví dụ như hình dưới đây

dsc_0326

Trong hình này Theo thứ tụ từ trái qua phải sẽ có số bản vẽ phụ(tùy có hoặc k cũng k sao) vì đôi khi cũng có những bản vẽ lớn hoặc phải nhìn ngược cũng có thể nhận ra số hiệu bản vẽ. Rồi số tham chiếu của chi tiết(nếu có nhiều chi tiết trên cũng 1 bản vẽ) vì có những bản vẽ có yêu cầu về độ nhám khác nhau nên ứng mỗi chi tiết trên bản vẽ sẽ chỉ thị độ nhám riêng. Tiếp theo là chỉ thị về độ nhám. Tiếp theo là viền khung giấy. rồi đến khung bản vẽ, rồi đến phần Lưu ý, tiếp là bảng quy cách (đối với bánh răng cần có các thông số được tổng hợp trên 1 bảng để dễ nhìn). Rồi đến Khung liệt kê các chi tiết, rồi khung tên bao gồm số hiệu bản vẽ, tên chi tiết. Rồi có bảng thông số dung sai chung(tức là những gì k có dung sai trên bản vẽ thì tra ở đây).

Đương nhiên không phải bản vẽ nào cũng bắt buộc phải giống vậy nhưng những cái bắt buộc phải có(theo mình nghĩ) là Khung tên, dung sai chung, phần chú ý chung. có người cho rằng bảng dung sai chung kia quá lằng nhằng, thợ tra sách là ok mà? những với đức tính tận tình của người Nhật thì việc để cho anh công nhân đứng máy tay dầu mỡ đi tìm cuốn sổ rồi liếm tay lật từng trang sách là điều vô cùng tội lỗi nên mọi thứ có thể thì đều nằm trên bản vẽ để người thợ đứng máy chỉ việc làm.

Và tùy theo công ty khác nhau mà có những khung bản vẽ khác nhau.

1.2 Phương pháp chiếu.

Cái này thì tùy từng nước mà có quy cách khác nhau, chia làm 2 kiểu chiếu chính là Hình chiếu thứ nhất và hình chiếu thứ 3.

hinh-chieu-thu-3
Hình chiếu thứ 3 khi chiếu vật thể
seizudaisann
Kí hiệu hình chiếu thứ 3

Hồi đầu khi quen làm với hình chiếu thứ nhất nên khi làm cho cty bây giờ(dùng hình chiếu thứ 3) sai bung bét cả lên vì phương pháp chiếu thay đổi.

Có người mô tả thế này: hình chiếu thứ 3 tưởng tượng giống như mở cửa sổ ý. nhìn vào rồi lật ra hoa mắt luôn.

Chọn hình chiếu chính thế nào?

Đây là vấn đề hết sức… vi diệu :)) vì nó khá mơ hồ nhưng cũng có những quy luật căn bản để lựa chọn dễ dàng hơn. Đó là:

・Hình chiếu chính là hình chưa nhiều thông tin nhất. Nói 1 cách dễ hiểu Khi mà yêu cầu của 1 bản vẽ là tốn ít hình chiếu nhất thì nếu có thể chỉ cần dùng mỗi hình chiếu chính cũng có thể hoàn thành bản vẽ.

Giờ bản vẽ cần mấy hình chiếu?

Thêm 1 câu hỏi … vi diệu :))

Ví dụ nếu bản vẽ về 1 tấm mà hình chiếu bên chỉ để biểu diễn độ dày thôi thì chỉ cần đúng 1 hình chiếu chính là đủ.

Ví dụ khác: Nếu là 1 chi tiết xoay tròn thì 1 hình chiếu chính là mặt cắt qua tâm cũng đủ biểu diễn rồi.

Cũng tùy theo kinh nghiệm dần sẽ quen thôi.

Tiêu chí: Càng ít hình chiếu càng tốt!

Chương 2: Những điều chú ý khi vẽ bản vẽ

Chương này khá thú vị vì có nhiều thứ rất có ích cho những beginer khi vẽ bản vẽ. bản thân mình cũng nhiều lúc lúng túng k biết nên biểu diễn ra sao cho đúng chuẩn, sao cho dễ hiểu nhất cả nên lọ mọ đi tìm bản vẽ khác để tham khảo rồi học theo.

2.1 .1chọn tỷ lệ bản vẽ.

Trong tiêu chuẩn JIS(Z 8314) quy định rõ ràng về tỷ lệ bản vẽ như sau:

(Những gì để trong ngoặc nghĩa là những tỷ lệ khi không thể dùng tỷ lệ khác được rồi)

Tỷ lệ thực 1:1
Phóng lớn 50:  20:1  10:1  (6:1)  5:1  (4:1)  (3:1)  2:1
Thu nhỏ 1:2  (1:3)  (1:4)  1:5 (1:6)  1:10  1:20  1:50  1:100  1:200  1:500  1:1000 1:10000

Tựu chung lại thì dù tỷ lệ bản vẽ có ra sao thì kích cỡ chữ so với khung bản vẽ không được thay đổi. Không thể nói rằng do hình to nên cho chữ to lên, hoặc hình nhỏ nên cho chữ nhỏ xuống được mà cỡ chữ phải thống nhất qua mọi bản vẽ.

Trên Autocad thì có thể liên tưởng đến không gian giấy(paper space) hoặc khái niệm Layout

còn trong Icad thì có cái hay là bản vẽ nằm trong GlocalWork nên dù tỷ lệ bản vẽ có thay đổi lên xuống thì khung vẽ(nằm trong Glocal work) vẫn không có gì thay đổi.

2.1.2 Liên quan đến cách thể hiện đường và kiểu chữ thì học căn bản cả rồi nên chắc k có gì phải nói lại.

2.2.1  Cách điền kích thướcdsc_0327

Trong bản vẽ này có chỉ ra 11 lỗi khác nhau. thì lỗi 1 và 2 khá mập mờ vì theo JIS chân đường kích thước phải giao với đường chi tiết. số 3 là do 2 đường kích thước giao nhau(giao với đường kt 37) lỗi 4 là không đúng quy cách vì chữ nằm trên đường kích thước, số 5 là do nằm ở vị trí dở hơi(?) theo mình đoán vì nó nằm quá gần kích thước 10(quy ước các kích thước cách nhau tối thiểu 8 đến 10mm). Lỗi 6 là do chồng chéo kích thước. Lỗi 7 là do kích thước nằm đúng đường tâm mà lẽ ra nó phải nằm thẳng hàng với kích thước 28 ở lỗi 5 để thể hiện vị trí của 2 lỗ chuẩn so với lỗ chính. Lỗi 8 do sai quy cách hướng chữ ngược. Lỗi 9 là kích thước 8H7 bị lặp lại. Lỗi 10 là do chữ A chèo lên đầu mũi tên trong khi quy định nó phải nằm đằng sau mũi tên. Lỗi 11 là do đường quá đậm(lẽ ra dùng đường đậm là OK)

2.2.2 Vị trí kích thước chuẩn

Tùy theo cách đặt kích thước chuẩn khác nhau mà sinh ra dung sai tích lũy khác nhau.

Ví dụ như hình bên dưới  Mặc dù ở hình bên trái kích thước 23 thì theo jis cấp trung dung sai là ±0.2 nhưng kích thước bên phải khi cộng 3 kích thước 9+5+9 vẫn ra 23 nhưng với kích thước này thì dung sai lại thành ±0.3 vì mỗi kích thước nhỏ kia có dung sai riêng khi tính bình quân lại sẽ ra 0.3DSC_0326 (1).JPG

2.3.1 Chiếu theo hướng mũi tên

khi các hình chiếu không thể mô tả được hình dáng chi tiết thì việc sử dụng chiếu theo hướng mũi tên khá hữu dụng vì nó không theo 1 hướng chiếu nhất định nào.444

Hình bên là ví dụ cho việckhông thể chiêu một cách thông thường để thể hiện được hình dáng chi tiết4444.JPG

Ngoài ra như hình trên thì ta dùng 1 mũi tên để chỉ hướng chiếu để dễ dàng đặt kích thước cho mặt nghiêng kia.

Ngoài ra thì cũng có vô số cách để biểu diễn bản vẽ như cắt trích, mặt cắt vvv nên sẽ bỏ qua phần này.

2.3.2 Lược bỏ những phần phía xa chi tiết.

Nói là xa vậy thôi chứ thực ra là mặt bên kia của chi tiết ví dụ hình bên dưới. Ở hình chiếu trái khi nhìn qua lỗ sẽ thấy mấy đường đỏ là cạnh của mặt đối diện. nhưng JIS cho phép lược bỏ đường đỏ này giúp hình dễ nhìn hơn. Và hình chiếu phải cũng vậy được phép lược hình chiếu phía bên kia chi tiết.

dsc_0326

Nếu chỉ là 1 chi tiết nhỏ này thì có vẻ chả có gì hay ho ghê gớm. nhưng nếu là 1 hình cực kì phức tạp thì đây là 1 cứu cánh khá tốt.

2.4.1 Những chi tiết không được cắt mặt cắt.

Cái này thì TCVN cũng có đó là những chi tiết Trục thì k cắt mặt cắt, Gân tăng cứng, bulong, đai ốc… không cắt mặt cắt. Những chỗ cần thể hiện như chỗ bắt vít, chốt… thì cắt trích ra thôi.

2.5.1 Mặt côn

Thực ra là k rõ trong tiếng việt phân biệt thế nào nhưng trong tiêu chuẩn nhật có phân biệt 1 kiểu là côn 1 phía(抜き勾配)ví dụ kiểu nêm (hình trái) và côn đối xứng(テーパ) ví dụ đầu trụ côn.(hình phải)

con3

2.6.1 Kí hiệu lỗ

Như hình bên dưới có vài kiểu lỗ khác nhau ứng với cách ghi khác nhau rất dễ hiểu

DSC_0326 (1).JPG

Chương 3: Những điểm quan trọng trong bản vẽ

Hiếm khi trong chế tạo máy 1 sản phẩm được tạo ra từ 1 chi tiết. chính vì vậy khi vẽ ra bất kì chi tiết nào cũng cần cân nhắc đến quan hệ giữa chi tiết  đang vẽ và chi tiết ghép cùng có quan hệ ra sao.

Về cơ bản có 3 trạng thái khi lắp:

1.Trục và lỗ lắp lỏng hay chặt

Lúc này phải xem tiêu chuẩn về dung sai thông thường JIS B 0405

Và các cách lắp ghép JIS B 0401

2. hình dáng trục và lỗ có bị cong hay thẳng

Xem dung sai hình học JIS B 0021

Xem dung sai lắp ghép thông thường JIS B 0419

3.Bề mặt gia công của trục và lỗ bóng loáng hay sần sùi

Xem trạng thái bề mặt JIS B 0031

3.1.1 Về phần các dung sai hình học thì đã có 1 series bài viết chi tiết về các loại dung sai hình học từ phần 1 đến phần 4

Phần 1: Click here

Phần 2  Click here

Phần 3: Click here

Phần 4: Click here

3.1.2 Về Kiểu Lắp ghép

Đây là câu chuyện luôn dài và đau đầu cho tầng lớp sinh viên mới ra trường lẫn những người đã đi làm. ví không có cái nào là chính xác 100% phải thế này phải thế kia mà chỉ có khái niệm: “Hay sử dụng kiểu lắp ghép này tương ứng dung sai này”

Chính vì vậy bài viết này lược bỏ phần này.(sẽ viết ở 1 bài khác khi đủ kinh nghiệm)

3.2.1 Độ nhám bề mặt.

giữa tiêu chuẩn cũ (trước năm 1978) thì hay dùng kí hiệu tam giác. sau năm 1978 trở đi thì hình giống dấu căn

Về giá trị tương đương giữa các kiểu kí hiệu thì có thể xem bảng bên dưới

se0167

Ở dưới cùng là mức thấp nhất tương đương không gia công.

Trong bảng này có 2 khái niệm là Rz và Ra. trong khi Rz chỉ ra các mức rất rạch ròi về giá trị và khi gia công phải đạt giá trị đó thì Ra lại khác. Khi chỉ thị đạt Ra3.2 chẳng hạn mà k có ghi chú gì thì mặc định người gia công sẽ gia công đạt 16% trị số trong quy ước. Nếu muốn đạt max thì cần chú thích thêm vào là phải đạt max.

Thêm 1 chút nữa:

Chiều cao nhấp nhô Rz là trị số trung bình của 5 khoảng cách từ 5 đỉnh cao nhất đến 5 đáy thấp nhất của nhấp nhô bề mặt tế vi trong phạm vi chiều dài tiêu chuẩn l

còn Ra là trị số trung bình số học tuyệt đối của profin trong giới hạn chiều dài chuẩn.

Đây là kết thúc phần 1. Chương này khá khó nên sẽ có những bài khác sửa đổi phụ trợ kèm sau.

2016.01.05 Japan